Truyện cổ tích dân tộc H’mông-Nù Dáo lấy con Trời
Nù Dáo lấy con Trời là truyện cổ tích dân tộc H’mông, kể về một chàng trai nghèo nhưng tốt bụng, được Trời thương cảm cho con gái út của mình xuống làm bạn.
1. Nù Dáo lấy con Trời
Nhà kia có hai anh em trai, bố mẹ chết sớm. Em tên là Nù Dáo. Anh đã có vợ, làm ăn khá giả. Nù Dáo lớn lên, vẫn ở với anh trai và chị dâu.
Một hôm, Nù Dáo đi cắt cỏ ngựa cho anh. Khi qua rừng, gần đến bãi cỏ, Nù Dáo bỗng nghe tiếng chim hót:
– Nù Dáo! Nù Dáo! Mày ăn khóc qua khỏe quá!
Tao làm không nổi cho Nù Dáo ăn.
Nù Dáo buồn quá, quay về nhà tay không. Anh hỏi tại sao về tay không. Nù Dáo kể lại chuyện gặp con chim nó hót. Người anh lấy làm lạ, nhưng không hỏi gì thêm.
Sáng hôm sau, anh lại bảo Nù Dáo đi cắt cỏ ngựa. Và người anh cũng đi, để xem Nù Dáo có gặp chim hót như thế thực không.
Hai anh em vừa đến khu rừng hôm qua, lại nghe tiếng chim hót vang lên rằng:
– Nù Dáo! Nù Dáo! Mày ăn khỏe quá!
Tao làm không nổi cho Nù Dáo ăn.
Nghe rõ, người anh biết ngay đấy chính là vợ mình bắt chước tiếng chim. Anh không nói gì, định bụng chốc sẽ hỏi vợ xem tại sao lại làm ra thế. Nù Dáo nghe chim hót vậy, đòi quay về, không đi cắt cỏ ngựa nữa. Người anh bằng lòng quay về.
Về đến nhà, người anh gọi vợ ra một chỗ kín, hỏi vợ tại sao lại giả làm chim hót ra những lời như thế. Vợ đáp:
– Để đuổi nó đi. Nó lớn rồi, phải tự đi làm ăn mà lấy vợ đẻ con. Nó lớn, ăn khỏe, ta không nuôi nổi nó nữa.
Người anh hiểu ý vợ. Sáng hôm sau, anh dậy sớm nắm một nắm cơm to, cắt một miếng thịt ướp, rồi em dậy, rủ em vào rừng bẫy chim bẫy sóc.
Không nghi ngờ gì, Nú Dáo vội vàng theo anh đi.
Vào đến rừng sâu, người anh đưa cho Nù Dáo nắm cơm và miếng iếng thịt, bảo Nù Dáo ngồi chờ, để mình đi đặt bẫy. Người anh đi sâu nữa vào rừng, và lừa lúc Nù Dáo không chú ý, anh ta lẻn về thẳng nhà, bỏ mặc em giữa rừng.
Nù Dáo ngồi chờ anh, càng chờ càng mất hút. Trời ngả tối, sương bay mù mịt núi rừng, anh Nù Dáo vẫn chưa trở lại. Nù Dáo đành bẻ lá lau, che thành một túp lều con, định ngủ cho qua đêm, chờ sáng mai tìm đường về nhà.
Đêm đó, không có ai làm bạn ngủ cùng, Nù Dáo buồn lắm. Nù Dáo trằn trọc mãi, hết nằm lại ra ngồi nhìn trời. Nhìn thấy trên trời có bảy ngôi sao sáng lấp lánh đứng gần nhau, Nù Dáo thì thầm:
– Anh mình chẳng về trên trời có bảy ngôi sao kia, ước gì một ngôi rơi xuống làm bạn với mình thì sướng quá!
Trời nghe Nù Dáo than thở vậy bèn nói:
– Dưới trần, có chàng trai nghèo khổ nhưng tốt bụng,
Trên trời, ta cho con gái út xuống làm bạn với mồ côi.
Nói xong, Trời gọi cô gái út là cô gái thứ bảy đến trước mặt, đeo vào ngón tay út của cô một chiếc nhẫn vàng và bảo rằng:
– Nù Dáo là người tốt. Anh chị nó không tốt, tìm cách đuổi nó đi. Nay nó đang khổ sở vì chưa có bạn. Ta cho con xuống làm vợ nó ít lâu. Con phải làm cho nó được giàu sang sung sướng.
Con gái út của Trời vâng lời cha, xuống trần ngay đêm đó.
Trong lều lau, Nù Dáo vẫn chưa ngủ. Đang nằm, Nù Dáo bỗng thấy một bàn tay sáng rực thò vào mở cửa lều. Nù Dáo sợ hãi hỏi:
– Ma hay người?
Có tiếng trả lời ở ngoài vào:
– Người thôi! Bố bảo về ở theo anh làm vợ chồng đấy, anh mau mở cửa cho em vào với!
Nù Dáo mừng quá, nhỏm dậy, mở cửa lều. Một cô gái đẹp Nù Dáo chưa từng thấy bước vào, làm sáng rực cả căn lều tăm tối. Nù Dáo bàng hoàng cả người. Cô gái kêu đi đường xa mệt, bảo Nù Dáo cho đi ngủ ngay. Hai người thành vợ thành chồng từ đêm ấy.
Sáng hôm sau, vợ chồng Nù Dáo cùng dậy sớm. Thấy lều chẳng có đồ ăn thức dùng gì, vợ Nù Dáo bèn tháo chiếc vòng tay làm một chiếc chảo, tháo nhẫn làm chiếc chõ, nàng lấy trong túi ra một hạt gạo mang từ trên trời xuống, cho vào chảo nấu. Hạt gạo biến thành vô số hạt gạo khác. Gạo sắp chín, nàng vớt ra rá, rồi bỏ vào chõ đồ chín lên [1]. Được cơm rồi, nàng lấy trong túi ra một cái lông lợn cũng mang từ trên trời xuống. Nàng bỏ chiếc lông lợn vào chảo luộc. Lông lợn biến thành thịt lợn. Nàng bày thịt và cơm ra tàu lá chuối trải giữa lều, gọi Nù Dáo đến cùng ngồi ăn cơm. Trong bữa ăn, nàng cho chồng biết là ngay đêm nay, bố mẹ họ hàng nàng ở trên trời sẽ xuống làm giúp vợ chồng nàng một ngôi nhà lớn và cho đủ đồ ăn thức dùng.
Đêm đó, trời làm mưa to gió lớn, sấm chớp ì ầm. Vợ chồng Nù Dáo mặc trời mưa gió, cứ ngủ say một mạch đến sáng. Sáng hôm sau, vừa mở mắt, vợ chồng Nù Dáo đã thấy mình đang ở trong một ngôi nhà lớn, cao chín tầng ở gần một con suối. Trong nhà đủ đồ ăn thức dùng, sang trọng như nhà vua.
Một hôm, bọn lính đi bắn chim cho vua ăn, qua nhà vợ chồng Nù Dáo. Thoáng thấy bóng vợ Nù Dáo trong nhà, biết đấy là một người đẹp, bọn lính về kể chuyện với vua:
– Vua có chín bà vợ cai quản chín phương trời, nhưng không một bà nào đẹp bằng vợ thằng muể nhô [2] ở trong khu rừng mà chúng tôi vừa đi qua.
Vua nghe bọn lính nói, bèn giận dữ, bắt bọn lính đưa đi xem mặt người đàn bà đẹp ấy ngay. Bọn lính khiêng kiệu, đưa vua đến nhà vợ chồng Nù Dáo.
Vợ Nù Dáo đang nằm trong buồng. Vua quát hỏi Nù Dáo:
– Thằng dân hèn này, mau gọi vợ mày ra đây để tao xem mặt.
Nù Dáo thản nhiên đáp:
– Vợ tôi xấu lắm, bẩn lắm. Tôi không gọi.
Vua quát to hơn
– Ta mặc kệ, phải gọi nó ra đây ngay!
Quát xong, lão ngồi xuống ghế đợi.
Nù Dáo phải vào gọi vợ ra cho vua xem mặt. Vợ Nù Dáo vừa bước ra, lão vua đã ngã quay xuống đất vì nàng đẹp quá. Lão lồm cồm bò dậy, thét quân lính dựa lão vào ghế cho khỏi ngã, để lão được nhìn vợ Nù Dáo. Một lát sau, lão ngọt ngào gạ:
– Nù Dáo à! Ta có chín vợ cai quản chín phương trời, ta đổi tất cả cho anh để lấy một vợ anh và ngôi nhà này. Anh đổi cho ta nhé!
– Vợ tôi xấu xí, không đáng đổi cho vua đâu.
Vợ Nù Dáo nói nhỏ vào tại chồng:
– Em là người trời, em sẽ về trời, anh cứ bằng lòng đổi cho hắn đi rồi làm vua. Khi đi, anh đừng đi thẳng. Anh phải quay lại đây hai lần. Lần thứ hai, em sẽ dặn anh một điều rồi em mới về trời được.
Nù Dáo nghe lời vợ. Anh bằng lòng đối vợ cho vua. Bọn lính khiêng kiệu đưa Nù Dáo về kinh thành. Đi một quãng, nhớ lời vợ dặn, Nù Dáo quay lại nhà. Anh thấy vợ đang ngồi đun bếp với lão vua, lửa đỏ cháy ngùn ngụt. Trông thấy anh, vợ anh nói:
– Được rồi! Đi đi, chốc trở lại đây lần nữa!
Nù Dáo lại lên kiệu đi. Một lát sau, anh bắt quân lính khiêng kiệu trở lại nhà. Về tới nơi, nhà đã cháy trụi, lão vua bị chết cháy. Vợ anh đứng trên một đám mây đỏ, nói xuống:
– Em phải về trời rồi. Em đã có mang. Sau này, nếu sinh con trai thì vợ chồng sẽ sống với nhau, nếu sinh con gái thì thôi. Anh cứ đi làm vua đi. Em có đồng tiền vàng, bẻ đôi, chia ra mỗi người giữ một nửa, ngày sau lấy làm của tin mà nhận nhau.
Nói xong vợ anh chia cho anh nửa đồng tiền vàng, rồi theo đám mây đỏ bay thẳng lên trời. Nù Dáo nhìn theo vợ cho tới lúc không trông thấy nữa mới chịu lên kiệu về kinh thành làm vua.
2. Đứa con của Trời
Gần kinh thành có hai vợ chồng già không con. Hai vợ chồng tìm lên núi hỏi một ông tiên. Ông tiên cho họ biết là trời sắp cho họ một đứa con trai tài giỏi.
Vợ chồng già mừng lắm, về nhà, đêm nào cũng chẻ đóm đốt đuốc ngồi chờ con Trời cho đến nửa đêm.
Một đêm, về gần sáng, trời mưa to gió lớn, vợ chồng già đang ngủ bỗng nghe tiếng trẻ con khóc. Họ mở cửa chạy ra, thấy một bé trai đẹp đẽ nằm khóc giữa sân. Vợ chồng già vội bế đứa bé vào, thấy thêm một cái bút, một cái nghiên và một sải lụa đỏ buộc vào ngực nó bằng một sợi tóc dài ba sải tay. Vợ chồng già bèn cất tất cả những thứ đó vào hòm. Họ cho đứa bé ăn, nó nín khóc.
Vợ chồng già nuôi nấng chăm nom đứa bé rất cẩn thận. Nó lớn lên như thổi, khỏe mạnh hơn tất cả trẻ khác. Khi được đi học, nó học giỏi hơn tất cả các học trò khác.
Bọn trẻ cùng học ghen ghét, thường mắng nó:
– Đồ con nuôi không cha không mẹ, có học giỏi cũng chẳng làm gì!”.
Đứa bé tức lắm, về hỏi bố mẹ nuôi. Bố mę nuôi không nói. Nó lên núi hỏi ông tiên. Ông tiên dặn:
– Cháu muốn tìm bố mẹ đẻ thì phải về lấy đất trát kín ba cái ống nước ở nhà lại, để đấy cho ông bà già. Cháu xin ông bà già cái bút, cái nghiên, sải lụa đỏ và sợi tóc dài ba sải mà đi tìm bố mẹ.
Đứa bé về, làm theo lời ông tiên. Nó lấy đất trát kín ba ống nước, đựng vào góc nhà cho ông bà già, rồi xin cái bút, cái nghiên, sải lụa đỏ và sợi tóc để đi tìm bố mẹ. Ông bà bằng lòng cho nó đi. Đứa bé đi được ba ngày, vợ chồng ông già mở ba ống nước ra, thấy trong đó đựng đầy vàng bạc. Hai vợ chồng dùng chỗ vàng bạc ấy nuôi thân cho tới lúc cuối đời.
Đứa bé đi lang thang tìm mẹ tìm bố, nhưng tìm mãi chẳng biết mẹ biết bố ở đâu. Nó lại lên núi hỏi tiên. Tiên mách:
– Ngày mai, cháu lên đầu đèo kia sẽ thấy bảy người đàn bà đẹp đi bảy con ngựa đẹp tới ăn cưới con gái Xính Chử Lầu [3]. Người cuối cùng chính là mẹ cháu.
Sáng hôm sau, đứa bé lên đầu đèo từ sáng sớm, đứng chờ. Gần trưa, quả nhiên có bảy bà trẻ đẹp cưỡi bảy con ngựa đẹp qua đèo. Đứa bé bèn túm lấy bờm con ngựa thứ bảy đi sau cùng nói với lên với người cưỡi:
– Mẹ ơi, cho con bú!
Người đàn bà cưỡi ngựa cầm roi quất đứa bé một cái và mắng rằng:
– Con nhà ai láo! Sao mi dám giữ ngựa lại mà đòi bú? Ta có phải là mẹ mi đâu?
Sáu người đi trước quay lại nhìn và cùng nói:
– Đúng con em đấy. Em không nhớ em xuống trần lấy Nù Dáo rồi có con à?
Người đàn bà cưỡi ngựa ấy chính là con gái thứ bảy của Trời. Nàng sực nhớ ra, bảo đứa bé:
– Nếu phải con ta thực thì phải đưa ta xem cái bút, cái nghiên, sải lụa đỏ và sợi tóc ba sải.
Đứa bé bèn đưa ra đủ bốn vật ấy. Nàng vội ôm lấy con mà khóc. Lát sau, nàng bảo con:
– Mẹ con ta phải đi tìm bố con thôi!
Rồi nàng từ biệt sáu chị, bỏ dở việc đi ăn cưới con gái Xính Chử Lầu, để đi tìm chồng.
3. Gia đình đoàn tụ
Hai mẹ con đi mãi, gặp một rặng núi cao chắn ngang không còn đường sá gì. Đứa bé bèn cầm bút chấm mực, viết lên mảnh giấy ba chữ rồi ném mảnh giấy vào rặng núi. Rặng núi biến mất, đường cái hiện ra trước mắt. Hai mẹ con lại đi. Một quãng sau, ngang đường có một con sông chảy qua. Sông rộng, sóng to, thuyền bè không thấy chiếc nào. Đứa bé lại lấy bút viết ba chữ lên mảnh giấy, ném mảnh giấy xuống sông. Trong chớp mắt, nước sông cạn hết. Hai mẹ con qua sông một cách dễ dàng.
Ba ngày sau, hai mẹ con đi đến một nơi đông đúc, có thành lũy kiên cố. Trong thành bỗng có ba phát súng nổ bắn về phía hai mẹ con. Đứa bé bèn viết ba chữ lên mảnh giấy rồi ném mảnh giấy xuống đất. Tức thì dưới đất nổ lên sáu phát súng bắn trả vào trong thành. Trong thành lại bắn ra sáu phát nữa. Dưới đất nổ lên chín phát bắn trả lại. Sau chín phát súng này, đứa bé dắt mẹ đến trước cổng thành, bảo quân canh vào mời vua ra nói chuyện.
Quân canh vào báo, nhưng hai mẹ con đúng chờ mãi chẳng thấy vua ra. Đợi hai ngày nữa cũng chẳng thấy vua ra. Hai mẹ con đành ngồi xuống trước cổng thành, nấu cháo sèo [4] ăn để chờ.
Chờ lâu quá, sốt ruột, người mẹ bèn làm một cái bánh sèo, nhét sợi tóc ba sải vào giữa, rồi nhờ quân lính gửi vào biếu vua.
Vua bóc bánh ra ăn, thấy sợi tóc ba sải thì biết ngay là tóc của vợ. Vua vội cho kiệu ra đón vợ và con vào. Vừa trông thấy vua, vợ vua đã chỉ tay vào mặt mà mắng rằng:
– Ngày xưa anh khổ, không thành người, bố tôi cho tôi xuống giúp anh nên người, sao anh mau quên, để mặc mẹ con tôi đói khổ ở ngoài cửa mãi thể? Anh không còn giữ nửa đồng tiền vàng như này nữa hay sao?
Vua vội vàng mang nửa đồng tiền vàng ra chắp với nửa đồng vợ vừa ném xuống trước mặt. Đồng tiền liền lại. Người vợ chưa hết giận, xông vào đánh, vua phải xin mãi, vợ mới tha cho. Từ đấy, cả nhà chung sống vui vẻ sung sướng. Đứa bé lại được đi học, càng học càng giỏi. Về sau, nó được lên thay cha, làm vua cai quản chín phương trời.
Câu chuyện Nù Dáo lấy con Trời – Truyện cổ tích dân tộc H’mông